Giá trị của học thuyết giá trị thặng dư trong kỷ nguyên mới
Tóm tắt:
Học thuyết giá trị thặng dư của C. Mác là hạt nhân lý luận của kinh tế chính trị Mác -Lênin, giữ vai trò then chốt trong việc vạch rõ bản chất, quy luật vận động và xu hướng phát triển của chủ nghĩa tư bản. Trong bối cảnh kỷ nguyên mới, đặc biệt là tác động sâu rộng của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, kinh tế số và toàn cầu hóa, đã xuất hiện nhiều quan điểm cho rằng học thuyết giá trị thặng dư không còn phù hợp. Bài viết tập trung phân tích, làm rõ giá trị khoa học, giá trị phương pháp luận và ý nghĩa hiện thời của học thuyết giá trị thặng dư trong điều kiện mới; đồng thời khẳng định tính bền vững và sức sống của học thuyết này trong việc nhận thức và phê phán chủ nghĩa tư bản hiện đại.
Từ khóa: Giá trị thặng dư, Kỷ nguyên mới, Học thuyết
1. Bản chất khoa học của học thuyết giá trị thặng dư
Học thuyết giá trị thặng dư được C. Mác xây dựng trên cơ sở học thuyết giá trị lao động, mà hạt nhân trực tiếp là việc phát hiện ra tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa: lao động cụ thể và lao động trừu tượng. Phát hiện này có ý nghĩa lý luận đặc biệt to lớn, bởi nó đã đưa học thuyết giá trị lao động từ trình độ trực giác khoa học của kinh tế chính trị cổ điển lên trình độ khoa học thực sự.
Trước C. Mác, ngay cả những nhà kinh tế học lớn của trường phái cổ điển tư sản như A. Smith và D. Ricardo cũng không giải thích được một cách nhất quán vì sao các nhà tư bản trao đổi hàng hóa đúng theo giá trị mà vẫn thu được lợi nhuận. Mâu thuẫn giữa trao đổi ngang giá và sự gia tăng giá trị vẫn là “điểm mù” trong lý luận của họ. Bằng phương pháp trừu tượng hóa khoa học, C. Mác đã vượt qua hạn chế đó, tách giá trị thặng dư ra khỏi các hình thái biểu hiện cụ thể của nó, từ đó xây dựng nên học thuyết giá trị thặng dư với tư cách là một chỉnh thể lý luận hoàn bị. C. Mác chỉ ra rằng, chỉ có lao động trừu tượng mới tạo ra giá trị, và chính việc phát hiện ra giá trị sử dụng đặc biệt của hàng hóa sức lao động, khả năng tạo ra giá trị lớn hơn giá trị bản thân nó, đã cho phép ông giải thích nguồn gốc thực sự của giá trị thặng dư. Nhờ phân biệt rõ quá trình lao động và quá trình làm tăng giá trị, C. Mác khẳng định dứt khoát rằng giá trị thặng dư được tạo ra trong sản xuất, chứ không phải trong lưu thông, dù lưu thông giữ vai trò không thể thiếu trong việc thực hiện giá trị thặng dư.
Từ nền tảng đó, C. Mác đã giải phẫu toàn bộ hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa: từ sự vận động của tư bản bất biến và tư bản khả biến, sự chuyển hóa của giá trị thặng dư thành lợi nhuận, lợi tức, địa tô, cho đến các quy luật tích lũy tư bản, tái sản xuất mở rộng và khủng hoảng kinh tế. Học thuyết giá trị thặng dư vì thế trở thành trục lý luận xuyên suốt của kinh tế chính trị Mác - Lênin, làm rõ bản chất và nguồn gốc của mọi hình thức “thu nhập” tư bản.
2. Học thuyết giá trị thặng dư và bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản
Học thuyết giá trị thặng dư đã chỉ ra một cách khoa học rằng, bóc lột trong chủ nghĩa tư bản không phải là hiện tượng ngẫu nhiên hay đạo đức cá nhân, mà là quan hệ kinh tế khách quan, gắn chặt với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Kinh tế hàng hóa tư bản chủ nghĩa là sự phát triển cao của kinh tế hàng hóa giản đơn, nhưng không chỉ khác về lượng mà khác về chất. Trên thị trường xuất hiện một loại hàng hóa đặc biệt - hàng hóa sức lao động, kéo theo sự hình thành của thị trường sức lao động. Điểm cốt yếu mà C. Mác phát hiện là: chỉ trong điều kiện người lao động bị tách khỏi tư liệu sản xuất, lao động mới trở thành lao động làm thuê, và tiền mới chuyển hóa thành tư bản.
Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa được xây dựng trên cơ sở chiếm đoạt lao động thặng dư dưới hình thái giá trị thặng dư. Giá trị thặng dư biểu hiện một cách chính xác bản chất bóc lột: đó là lao động thặng dư vật hóa, là phần giá trị do người lao động tạo ra vượt quá giá trị sức lao động của họ nhưng bị nhà tư bản chiếm đoạt. Đặc điểm đặc thù của bóc lột tư bản chủ nghĩa là quan hệ bóc lột bị che giấu sau quan hệ giữa vật với vật, giữa tiền với tiền, giữa tư bản với tư bản. Tỷ lệ bóc lột không còn hiện ra như tỷ lệ giữa người với người, mà biến thành tỷ lệ giữa giá trị thặng dư và tư bản khả biến. Chính sự vật hóa này làm cho bóc lột trong chủ nghĩa tư bản trở nên tinh vi, khó nhận diện nhưng không giới hạn.
Như vậy, điểm mấu chốt của học thuyết giá trị thặng dư là: chỉ có lao động sống mới tạo ra giá trị của hàng hóa, tạo ra giá trị thặng dư. Nguồn gốc tạo ra giá trị thặng dư là sức lao động của công nhân làm thuê, chỉ có lao động sống (sức lao động đang hoạt động) mới tạo ra giá trị, trong đó có giá trị thặng dư, nguồn gốc của giá trị thặng dư là sự tiêu dùng sức lao động kéo dài ngoài thời gian tái sản xuất ra giá trị của nó; giá trị thặng dư là quy luật kinh tế tuyệt đối của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, không có sản xuất giá trị thặng dư thì không có chủ nghĩa tư bản, giá trị thặng dư là nguồn gốc của mâu thuẫn cơ bản, nội tại của xã hội tư bản (mâu thuẫn giữa lao động và tư bản, giữa giai cấp tư sản và giai cấp công nhân), mâu thuẫn này ngày càng sâu sắc, đưa đến sự thay thế tất yếu chủ nghĩa tư bản bằng một xã hội cao hơn; khẳng định chừng nào còn chế độ chiếm hữu tư bản tư nhân về tư liệu sản xuất, còn hàng hóa sức lao động, chừng nào mà người lao động còn phải thêm vào thời gian lao động cần thiết để nuôi sống mình một số thời gian lao động dôi ra để sản xuất những tư liệu sinh hoạt cho người chiếm hữu tư liệu sản xuất, chừng đó, học thuyết giá trị thặng dư của C. Mác vẫn còn nguyên giá trị.
3. Những đặc điểm mới của giá trị thặng dư trong bối cảnh hiện nay
Một là, do khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo được áp dụng ngày càng phổ biến, nên khối lượng giá trị thặng dư được tạo ra chủ yếu nhờ tăng năng suất lao động. Việc tăng năng suất lao động do áp dụng kỹ thuật và công nghệ hiện đại có đặc điểm là chi phí lao động sống cho một đơn vị sản phẩm giảm nhanh, vì máy móc hiện đại thay thế được nhiều lao động sống hơn. Hơn nữa, nhà tư bản thông qua sử dụng ồ ạt các thiết bị tự động hóa, đem khoa học - kỹ thuật hiện đại ứng dụng với quy mô lớn vào sản xuất, đã nâng cao rất nhiều lần năng suất lao động. Tuy nhiên, dù máy móc tự động hóa đã thay thế lao động trực tiếp và một bộ phận lao động trí óc của con người, nhưng không thay thế được địa vị lao động của con người, càng không thể thay đổi địa vị chủ thể của con người trong quá trình sản xuất. Do đó, bất cứ lao động nào, dù là lao động giản đơn hay lao động trí tuệ mà không được trả công tương xứng với giá trị mà lao động đó sáng tạo ra (sau khi trừ các khoản chi phí cần thiết) trong tư bản chủ nghĩa đều bị bóc lột giá trị thặng dư.
Hai là, cơ cấu lao động xã hội ở các nước tư bản phát triển hiện nay có sự biến đổi lớn. Hàm lượng chất xám (sự đầu tư trí tuệ của công nhân, trí thức, kỹ thuật lập trình, nhà khoa học phát minh, sáng chế, nhà quản trị và công nghệ hiện đại), nên lao động phức tạp, lao động trí tuệ tăng lên và thay thế lao động giản đơn, lao động cơ bắp, dẫn đến lao động trí tuệ, lao động có trình độ kỹ thuật cao ngày càng có vai trò quyết định trong việc sản xuất ra giá trị thặng dư. Thu nhập chủ yếu của nhà tư bản trong điều kiện kinh tế tri thức cũng không phải công quản lý mà từ phần lao động thặng dư của người lao động làm thuê, chủ yếu là lao động trí tuệ, nhà tư bản chiếm lấy. Chính nhờ sử dụng lực lượng lao động này mà tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư đã tăng lên rất nhiều. Ngày nay, sự điều tiết phân phối giá trị thặng dư của các nhà tư bản qua thuế, quỹ phúc lợi xã hội, bảo hiểm xã hội, trợ cấp thất nghiệp,... cũng tạo nên một số thu nhập nào đó cho người lao động. Sự xuất hiện chế độ sở hữu hỗn hợp với sự hiện diện của các công ty cổ phần, trong đó đại bộ phận là sở hữu tư nhân tư bản với một bộ phận nhỏ cổ phần của người lao động đã làm giảm đi một phần nào tính gay gắt của mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa cao của lực lượng sản xuất xã hội với chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Trong lĩnh vực quản lý và phân phối cũng có những điều chỉnh đáng kể. Việc cho người công nhân được mua cổ phiếu, tham dự hội nghị cổ đông, việc giảm thiểu thời gian lao động trong tuần,... dường như là chiếc van điều áp, giảm thiểu mâu thuẫn giữa tư bản và lao động.
Ba là, điểm cần lưu ý, xem xét quan hệ bóc lột của chủ nghĩa tư bản ngày nay không chỉ bó hẹp trong quan hệ giữa nhà tư bản và người lao động làm thuê ở các nước tư bản chủ nghĩa, mà phải xem xét cả quan hệ thống trị, bóc lột của các nước phát triển với các nước kém và đang phát triển, thể hiện ở sự phân hóa hai cực: giàu, nghèo của thế giới. Bởi vì, sự bóc lột giá trị thặng dư của chủ nghĩa tư bản đã mang “tính quốc tế”. Ngày nay, trong điều kiện toàn cầu hóa, Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước quốc tế, thông qua các hình thức, như xuất khẩu tư bản, di chuyển lao động từ nước này sang nước khác, việc bành trướng của các công ty xuyên quốc gia, tình trạng bất bình đẳng trong các quan hệ thương mại quốc tế, sự xuất hiện cái gọi là chủ nghĩa thực dân kinh tế, sự áp đặt chính sách giữa Đông và Tây, giữa các nước giàu với các nước nghèo,... khiến cho việc sản xuất giá trị thặng dư mang tính quốc tế, được tư bản hóa, được xuất khẩu để quốc tế hóa tư bản với sự đa dạng của các hình thức sản xuất ra nó.
Bốn là, những sự “điều chỉnh” để thích ứng của chủ nghĩa tư bản tuy có tác động tới sự phát triển, song đưa lại hệ quả xấu là khoét sâu thêm khoảng cách giữa giàu và nghèo, làm cho các nước nghèo ngày càng nghèo hơn, các nước giàu ngày càng giàu hơn. Tích tụ tư bản và bóc lột công nhân là hai quá trình thực tế không tách rời nhau. Điều đó được xác nhận qua sự thành lập các tập đoàn kinh tế khổng lồ trên cơ sở tăng cường bóc lột bằng những phương thức mới, qua nạn thất nghiệp phổ biến đang trở thành hiện tượng kinh niên. Mặt khác, điều đó cũng xác nhận cho học thuyết của C. Mác khi nói rằng đi kèm sự phát triển của chủ nghĩa tư bản là hiện tượng tăng tư bản bất biến (dùng để mua tư liệu sản xuất) và giảm tư bản khả biến (dùng để mua lao động). Hiện nay, trong phạm vi quốc gia, chủ nghĩa tư bản hiện đại cố gắng xây dựng một hệ thống pháp luật đa dạng, phổ cập trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, tạo điều kiện cho quá trình “điều chỉnh” của chủ nghĩa tư bản tư nhân đối với các quá trình kinh tế. Để điều hòa các mâu thuẫn hiện tại của nó, chủ nghĩa tư bản tập trung giải quyết các vấn đề kinh tế nhằm thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất. Động thái này được tiến hành trong sự kết hợp với việc nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm và hiệu quả sản xuất, giảm bớt chi phí xã hội, mở rộng môi trường cạnh tranh,... Vì thế, việc nhà nước tư sản ở các nước công nghiệp phát triển chiếm hữu và phân phối từ 30% - 60% thu nhập quốc dân và sử dụng một phần từ siêu lợi nhuận thu được để trả công cho người lao động dễ tạo ra trong người lao động một “ảo giác” về tình trạng không bị bóc lột.
4. Sức sống bền vững của Học thuyết giá trị thặng dư trong Kỷ nguyên mới hiện nay
Học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác vẫn giữ nguyên giá trị bền vững khi giải thích bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản, chỉ ra nguồn gốc mâu thuẫn giữa tư bản và lao động, đồng thời làm rõ quy luật kinh tế tuyệt đối chi phối sự vận động và phát triển của chủ nghĩa tư bản - nơi mà lao động sống tạo ra giá trị thặng dư, dẫn đến sự giàu có cho nhà tư bản và bóc lột người công nhân. Những giá trị này vẫn còn nguyên giá trị trong thời đại kỹ thuật số, giúp nhận diện các hình thức bóc lột mới, hiểu sâu sắc hơn về quan hệ sản xuất và sự phát sinh mâu thuẫn xã hội, từ đó định hướng cho công cuộc đấu tranh cho xã hội công bằng hơn. Giá trị lý luận và khoa học: Phát hiện bản chất bóc lột: Giải thích rằng giá trị thặng dư không phải là từ mua bán hàng hóa thông thường, mà là từ việc nhà tư bản chiếm đoạt phần lao động không công của công nhân (lao động thặng dư), đây là cốt lõi của sự bóc lột tư bản chủ nghĩa; Xác định quy luật kinh tế cơ bản: sản xuất giá trị thặng dư là quy luật kinh tế tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản, là động lực thúc đẩy sản xuất và tích lũy tư bản, đồng thời là nguồn gốc của các mâu thuẫn giai cấp sâu sắc (giữa tư bản và lao động). Bên cạnh đó, C.Mác đã dự báo sự thay thế tất yếu: Học thuyết chỉ ra rằng mâu thuẫn nội tại của chủ nghĩa tư bản, bắt nguồn từ giá trị thặng dư, sẽ dẫn đến sự sụp đổ tất yếu của nó và sự ra đời của một xã hội cao hơn (Chủ nghĩa Cộng sản mà giai đoạn thấp là chủ nghĩa xã hội).
Giá trị thực tiễn và thời đại mới: Nhận diện bóc lột trong nền kinh tế tri thức: Ngay cả trong kỷ nguyên công nghệ, bóc lột giá trị thặng dư vẫn tồn tại dưới các hình thức tinh vi hơn (ví dụ: trong dịch vụ, công nghệ thông tin). Hiểu rõ động cơ tích lũy: Giúp phân tích động lực tích lũy tài sản và mở rộng sản xuất của các tập đoàn, doanh nghiệp lớn. Cơ sở lý luận cho đấu tranh giai cấp: Cung cấp công cụ để giai cấp công nhân và nhân dân lao động nhận thức rõ quyền lợi, từ đó đấu tranh chống lại sự bóc lột và bất công trong xã hội tư bản và các xã hội có yếu tố tư bản.
Bước sang kỷ nguyên mới, đặc biệt là trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, chủ nghĩa tư bản đương đại đã có nhiều điều chỉnh về hình thức sở hữu, quản lý và phân phối; khoa học, công nghệ, kinh tế số, trí tuệ nhân tạo, tự động hóa phát triển mạnh mẽ. Từ đó, xuất hiện những luận điểm cho rằng học thuyết giá trị thặng dư đã lỗi thời, rằng ngày nay “máy móc tạo ra giá trị”, hoặc “chủ nghĩa tư bản chỉ còn bóc lột người máy”. Những lập luận đó tuy có sức hấp dẫn bề ngoài, nhưng không bác bỏ được bản chất khoa học của học thuyết. Thực tế cho thấy, máy móc, trí tuệ nhân tạo, thuật toán hay dữ liệu lớn không tự sản sinh ra giá trị mới. Chúng đều là sản phẩm của lao động quá khứ, thuộc về tư liệu sản xuất, và chỉ chuyển giá trị của mình vào sản phẩm, chứ không tạo ra giá trị thặng dư.
Trong điều kiện Cách mạng công nghiệp 4.0, giá trị thặng dư chủ yếu được tạo ra thông qua việc nâng cao năng suất lao động, rút ngắn thời gian lao động tất yếu và kéo dài tương đối thời gian lao động thặng dư. Việc tự động hóa, số hóa, nền tảng hóa sản xuất không làm mất đi vai trò của lao động sống, mà thay đổi hình thức biểu hiện của nó: từ lao động cơ bắp sang lao động trí tuệ, lao động sáng tạo, lao động dữ liệu, lao động nền tảng số. Do đó, bất kỳ lao động nào - dù là lập trình, thiết kế thuật toán, quản trị dữ liệu, sáng tạo nội dung số - nếu không được trả công tương xứng với giá trị mà nó tạo ra, thì đều là đối tượng bị bóc lột giá trị thặng dư. Trong kỷ nguyên số, bóc lột không giảm đi, mà trở nên tinh vi hơn, ẩn dưới các hợp đồng linh hoạt, làm việc tự do, kinh tế nền tảng, và sự phụ thuộc vào các tập đoàn công nghệ xuyên quốc gia.
Những phân tích trên đây chưa thể nói lên tất cả những mâu thuẫn, xung đột ngày càng gay gắt trong lòng xã hội tư bản hiện nay, nhưng cũng đã phác họa được bức tranh khái quát về những hình thức biểu hiện mới của vấn đề bóc lột của tư bản đối với lao động trên toàn thế giới. Nhưng, dù những hình thức bóc lột có biến tướng, tinh vi đến mức nào chăng nữa thì bản chất bóc lột của tư bản đối với lao động vẫn là bóc lột giá trị thặng dư - tức là bóc lột lao động sống của người lao động chứ không thể bóc lột lao động “chết” của máy móc được. Do vậy, nói một cách khác, học thuyết giá trị thặng dư vẫn còn nguyên giá trị, chủ nghĩa tư bản vẫn giữ nguyên bản chất bóc lột của nó.
Luận điểm của C. Mác và Ph. Ăng-ghen về chế độ người bóc lột người trong xã hội tư bản vẫn giữ nguyên giá trị khoa học. Mặc dù đã có sự thay đổi và điều chỉnh, song có thể khẳng định: bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản không thay đổi; khi nào những mâu thuẫn trong lòng xã hội tư bản còn tồn tại thì khi ấy, học thuyết GTTD vẫn sẽ mãi là ánh sáng chỉ đường cho sự nghiệp giải phóng giai cấp công nhân và loài người khỏi mọi hình thức nô dịch, áp bức, bóc lột của chủ nghĩa tư bản./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Phú Trọng (2019), Giá trị và ý nghĩa của học thuyết giá trị thặng dư trong phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Tạp chí Cộng sản, (913).
2. Lê, Hữu Quý (2021), “Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Nhận thức lý luận và thực tiễn mới.” Tạp chí Cộng sản, số 952, 2021.
3. Phạm Văn Đức (2010), “Giá trị khoa học và sức sống của học thuyết giá trị thặng dư trong bối cảnh toàn cầu hóa.” Tạp chí Lý luận Chính trị, số 8, 2020.
4. Nguyễn, Thị Hồng (2022), “Lao động, giá trị và phân phối trong nền kinh tế số hiện nay.” Tạp chí Lý luận Chính trị, số 11, 2022.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Hà Nội: Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật.
6. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam. (2020). Kiên định và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện mới. Truy cập từ https://dangcongsan.vn