Sign In

Vai trò của V.I.Lênin đối với lý luận và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay

14:11 23/12/2025

Chọn cỡ chữ A a    

Vai trò của V.I.Lênin đối với lý luận và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay


Tóm tắt: V.I. Lênin là nhà tư tưởng vĩ đại, nhà lý luận chính trị kiệt xuất, lãnh tụ lỗi lạc của giai cấp công nhân và nhân dân lao động toàn thế giới. Trong cuộc đời hoạt động cách mạng phong phú, tên tuổi, sự nghiệp và cống hiến to lớn của V.I. Lênin đối với cách mạng thế giới gắn liền với những cống hiến trong việc bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác trong điều kiện chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa; người sáng lập Nhà nước Xôviết - Nhà nước công nông đầu tiên trên thế giới và lãnh đạo nhân dân Liên Xô bắt tay vào xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực. Di sản của V.I. Lênin rất phong phú, đồ sộ, không chỉ có tầm ảnh hưởng sâu rộng trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, trở thành tài sản chung của toàn nhân loại nói chung mà còn có ý nghĩa trong hành trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam nói riêng ngày càng tốt đẹp hơn.

Từ khóa: V.I.Lênin, xây dựng, chủ nghĩa xã hội, Việt Nam.

  1. Đặt vấn đề

    Tên tuổi, sự nghiệp và cống hiến to lớn của V.I.Lênin đối với cách mạng thế giới gắn liền với những cống hiến của ông trong việc bảo vệ, vận dụng và bổ sung, phát triển sáng tạo lý luận mácxít nhằm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trong phạm vi từng nước và trên thế giới. Hiện nay, đời sống chính trị - xã hội quốc tế có những diễn biến phức tạp. Chủ nghĩa xã hội hiện thực đang ở thời kỳ khủng hoảng, các đảng cộng sản và đảng công nhân đã và đang đổi mới nhận thức lý luận, thông qua tổng kết thực tiễn làm sáng tỏ lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với từng quốc gia, dân tộc trong đó có Việt Nam. Yêu cầu cấp bách đặt ra là phải kiên định với những nguyên lý, giá trị bền vững trong lý luận cách mạng của V.I.Lênin, đồng thời bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện mới. Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, tổ chức và lãnh đạo luôn luôn coi chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng.

  2. Nội dung

    Chủ nghĩa xã hội theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin là giai đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Đó là một xã hội tiến bộ, ưu việt, là quá trình lịch sử tự nhiên phù hợp với quy luật phát triển của lịch sử xã hội loài người, phản ánh được nét đặc sắc của truyền thống dân tộc và xu thế phát triển của thời đại. Lênin khi nêu ra những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội đã không coi đó là mộ hình bất biến và đã phác thảo trên một số nét cơ bản như sau:

    Thứ nhất, mục tiêu cao nhất của chủ nghĩa xã hội là giải phóng con người khỏi mọi ách bóc lột về kinh tế, nô dịch về tinh thần, tạo điều kiện cho con người phát triển toàn diện. Lênin khẳng định, chỉ đến chủ nghĩa xã hội thì con người mới có khả năng được giải phóng khỏi mọi hình thức áp bức, bất công. Mục tiêu cao nhất của chủ nghĩa xã hội là giải phóng con người khỏi mọi ách áp bức về kinh tế, nô dịch về tinh thần, bảo đảm sự phát triển toàn diện cá nhân, hình thành và phát triển lối sống xã hội chủ nghĩa, làm cho mọi người phát huy tính tích cực của mình trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhà xóa bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân. tư bản chủ nghĩa mà xóa bỏ sự dõi kháng giai cấp, xóa bỏ tinh trạng người bóc lột người, tình trạng nó dịch và áp bức dân tộc, thực hiện được sự công bằng, bình đẳng xã hội.

    Thứ hai, cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội được tạo ra bởi một lực lượng sản xuất tiên tiến, hiện đại. V.I.Lênin khẳng định, cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội phải là nền sản xuất công nghiệp hiện đại. Chỉ có nền sản xuất công nghiệp hiện đại mới đưa năng suất lao động lên cao, tạo ra ngày càng nhiều của cải vật chất cho xã hội, đảm bảo đáp ứng những nhu cầu vật chất và văn hóa của nhân dân, không ngừng nâng cao phúc lợi xã hội cho toàn dân: “Chủ nghĩa cộng sản = chính quyền Xôviết + điện khí hóa”[1].

    Thứ ba, chủ nghĩa xã hội là từng bước xoá bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Các nhà kinh điển mácxít cho rằng, việc xóa bỏ chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa và thay thế vào đó là chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa phải nhằm mục đích tạo điều kiện để giai cấp vô sản giành lấy toàn bộ lực lượng sản xuất, xóa bỏ sự tách rời người lao động khỏi điều kiện lao động, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ hơn nữa, đảm bảo lợi ích cho người lao động. Do đó, phải “đưa vấn đề sở hữu lên hàng đầu, coi đó là vấn đề cơ bản của phong trào, không kể là nó đã phát triển đến thế nào”[2].

    V.I. Lênin cho rằng, chủ nghĩa xã hội là chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, “từ chủ nghĩa tư bản, nhân loại chỉ có thể tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, nghĩa là chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất và chế độ phân phối sản phẩm theo lao động của mỗi người”[3]. Trong khi thay thế chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và lưu thông bằng chế độ sở hữu xã hội, ông cho rằng cần phải lập ra một tổ chức hợp lý các quá trình sản xuất xã hội để đảm bảo phúc lợi và sự phát triển toàn diện của các thành viên trong xã hội, cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa của giai cấp vô sản sẽ thủ tiêu tình trạng phân chia xã hội thành giai cấp và do đó sẽ giải phóng toàn thể loài người bị áp bức, chấm dứt mọi hình thức bóc lột của bộ phận xã hội này với bộ phận xã hội khác.

    Thứ tư, chủ nghĩa xã hội tạo ra cách tổ chức lao động và kỷ luật lao động mới với năng suất cao. Trong những luận giải của mình về chủ nghĩa xã hội, V.I.Lênin đã nêu rõ nguyên nhân vì sao chủ nghĩa xã hội đã tạo ra được một năng suất lao động cao hơn so với chủ nghĩa tư bản. Ngoài cơ sở vật chất là nền đại công nghiệp hiện đại, thì còn do những yếu tố vốn có của chủ nghĩa xã hội, những yếu tố này không thể có được trong lòng chủ nghĩa tư bản. Đó là cách tổ chức lao động và kỷ luật lao động mới. V.I.Lênin khẳng định kỷ luật của chế độ nô lệ và chế độ phong kiến là kỷ luật roi vọt; kỷ luật của chủ nghĩa tư bản là kỷ luật đói; còn kỷ luật của chủ nghĩa xã hội là kỷ luật tự giác và tự nguyện của chính ngay những người lao động.

    Để có được cách tổ chức lao động mới thì cần phải thực hiện chế độ kiểm kê, kiểm soát toàn dân. Khi thực hiện Chính sách kinh tế mới, tư tưởng về sự kiểm kê, kiểm soát toàn dân được đề cao, V.I.Lênin coi đó là để cứu nước Nga khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế, nhưng vẫn đảm bảo cho nước Nga tiến lên chủ nghĩa xã hội. Người coi việc kiểm kê, kiểm soát toàn dân đối với sản xuất và phân phối sản phẩm là một hình thức của sự quá độ, là cái giữ cho xã hội không đi chệch khỏi con đường xã hội chủ nghĩa trong điều kiện thực hiện chủ nghĩa tư bản nhà nước. Như vậy, chủ nghĩa xã hội sẽ tạo ra một năng suất lao động cao hơn chủ nghĩa tư bản nhờ việc đưa ra một hình thức tổ chức lao động và kỷ luật lao động mới.

    Thứ năm, chủ nghĩa xã hội thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động. Theo Lênin, phân phối theo lao động là cách thức phân phối trong giai đoạn thấp của xã hội cộng sản chủ nghĩa, nó thích hợp nhất với chủ nghĩa xã hội, bởi vì nó được dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Phân phối theo lao động không có nghĩa là mỗi người làm được bao nhiêu sản phẩm thì được hưởng hết bấy nhiêu. Trái lại, tổng sản phẩm do lao động xã hội tạo ra phải được đem phân phối cho cả tiêu dùng cá nhân, cho cả tích lũy tái sản xuất mở rộng và cho cả tiêu dùng công cộng của xã hội. Phương thức phân phối sẽ thay đổi tùy theo bản thân loại cơ cấu sản xuất xã hội và tùy theo trình độ phát triển lịch sử tương ứng của những người sản xuất.

    V.I. Lênin chỉ rõ, trong chủ nghĩa xã hội của cải làm ra chưa đạt đến mức dồi dào, lao động còn là nghĩa vụ, là phương tiện để sinh sống chứ chưa trở thành nhu cầu bậc nhất của đời sống ở giai đoạn cao là chủ nghĩa cộng sản. Do đó, cách phân phối sản phẩm theo lao động được dựa trên hai nguyên tắc: “người nào không làm thì không ăn”; “số lượng lao động nhau thì hưởng số sản phẩm ngang nhau”. Hơn nữa, chủ nghĩa xã hội ra đời và phát triển chưa phải dựa trên cơ sở của chính nó mà thoát thai từ xã hội cũ nên vẫn còn nhiều dấu vết, sức ỳ của xã hội cũ, nhiều người còn trốn tránh, lười biếng trong lao động. Vì vậy, cần thiết phải phân phối theo lao động và kiểm tra kiểm soát nghiêm mức độ lao động và tiêu dùng của mỗi người.

    Thứ sáu, nhà nước trong chủ nghĩa xã hội là nhà nước dân chủ kiểu mới, thể hiện bản chất giai cấp công nhân, đại biểu cho lợi ích, quyền lực và ý chí của nhân dân lao động. Theo VI. Lênin, nhà nước được thành lập bởi thắng lợi của cách mạng vô sản phải là một nhà nước trên cơ sở đập tan toàn bộ bộ máy nhà nước cũ. Khi giai cấp vô sản giành được chính quyền thì sức mạnh của đảng được thực hiện thông qua nhà nước, đảng sẽ lãnh đạo được toàn xã hội. Để giúp giai cấp vô hiểu về nhà nước, biết cách quản lý nhà nước của mình, Người chỉ ra các nguyên tắc cho việc xây dựng một nhà nước sau thắng lợi của cách mạng vô sản. Đó là, phải đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản - đảng kiểu mới của giai cấp vô sản; đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân; đảm bảo tập trung dân chủ trong cơ chế vận hành của nhà nước và đảm bảo dân chủ trong xã hội.

    V.I.Lênin nhấn mạnh, thông qua nhà nước, Đảng lãnh đạo toàn xã hội về mọi mặt và nhân dân lao động thực hiện quyền lực và lợi ích của mình trên mọi mặt của xã hội. Nhân dân lao động tham gia nhiều vào công việc nhà nước. Đây là một “nhà nước nửa nhà nước”, với tính tự giác, tự quản của nhân dân rất cao, thể hiện các quyền dân chủ, làm chủ và lợi ích của chính mình ngày càng rõ hơn. “Chính quyền Xôviết một kiểu nhà nước mới, không có bộ máy quan liêu... một kiểu nhà nước trong đó nền dân chủ tư sản được thay thế bằng nền dân chủ mới, - một nền dân chủ đang đưa đội tiên phong của quần chúng lên hàng đầu, là cho quần chúng trở thành những người lập pháp và hành pháp, thành những đội vũ trang bảo vệ, và thiết lập một bộ máy có khả năng cải tạo quần chúng”[4]. Để xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước, cần hết sức quan tâm vấn đề đào tạo và bồi dưỡng cán bộ. Muốn đổi mới bộ máy nhà nước thì “chúng ta phải cố hết sức tự đặt cho mình nhiệm vụ sau đây: một là học tập, hai là học tập, ba là học tập mãi, và sau nữa, phải làm sao cho học thức ở nước ta không nằm trên giấy hoặc là một lời nói theo mốt nữa... phải làm sao cho học thức thật sự ăn sâu vào trí não, hoàn toàn và thực tế trở thành một bộ phận khăng khít của cuộc sống”[5].

    Thứ bảy, trong chủ nghĩa xã hội, các quan hệ giai cấp - dân tộc - quốc tế được giải quyết phù hợp, kết hợp lợi ích giai cấp dân tộc với chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Đối với VI. Lênin, tiếp cận và giải quyết vấn đề dân tộc phải đứng vững trên lập trường cách mạng của giai cấp công nhân. Trong tác phẩm Quyền dân tộc tự quyết viết năm 1914. V.I.Lênin đã nêu rõ nội dung cương lĩnh dân tộc của Đảng. “Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng; các dân tộc được quyền tự quyết; liên hợp công nhân tất cả các dân tộc lại; đó là cương lĩnh dân tộc mà chủ nghĩa Mác, kinh nghiệm toàn thế giới và kinh nghiệm của nước Nga dạy cho công nhân”[6].

    Khi chủ nghĩa đế quốc trở thành hệ thống thế giới, cách mạng giải phóng dân tộc trở thành một bộ phận của cách mạng vô sản, V.I.Lênin cho rằng cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chính quốc sẽ không giành được thắng lợi, nếu nó không liên minh với cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức. Từ đó, Người cùng với Quốc tế Cộng sản bổ sung khẩu hiệu nêu trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản: “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”. “Chủ nghĩa xã hội có mục đích không những xóa bỏ tình trạng nhân loại bị chia thành những quốc gia nhỏ và xóa bỏ tình trạng nhân loại bị chia thành những quốc gia nhỏ và xóa bỏ mọi trạng thái biệt lập giữa các dân tộc, không những làm cho các dân tộc gần gũi nhau, mà cũng còn nhằm thực hiện việc hợp nhất các dân tộc lại”[7]. Chính vì vậy, chủ nghĩa xã hội nhất thiết phải bảo đảm quyền bình đẳng giữa các dân tộc trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, không phân biệt dân tộc đa số hay thiểu số, về lịch sử ra đời sớm hay muộn, trình độ phát triển cao hay thấp giữa các dân tộc. Đối lập với các chế độ áp bức bóc lột người thường phân biệt, kỳ thị và chia rẽ các dân tộc, chủ nghĩa xã hội gắn việc xây dựng tình đoàn kết các dân tộc, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển, từng bước rút ngắn khoảng cách chênh lệch về trình độ phát triển giữa các dân tộc hiện nay. Đồng thời, phải đấu tranh không khoan nhượng chống chủ nghĩa dân tộc cực đoan, phản động, cần phải phân biệt chủ nghĩa dân tộc của dân tộc đi áp bức với chủ nghĩa dân tộc của một dân tộc bị áp bức, chủ nghĩa dân tộc của một dân tộc lớn với chủ nghĩa dân tộc của một dân tộc nhỏ.

    Trong hành trình tìm đường cứu nước, từ một người yêu nước, Nguyễn Ái Quốc đã trở thành một người cộng sản. Bước ngoặt ấy đến khi Người được tiếp cận “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” (năm 1920) của V.I. Lê-nin. Người viết: “Luận cương của Lê-nin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!”. Từ đó tôi hoàn toàn tin theo Lê-nin, tin theo Quốc tế thứ ba”[8].

    Chủ tịch Hồ Chí Minh tin theo V.I. Lê-nin, tin theo Cách mạng Tháng Mười Nga và lựa chọn con đường cách mạng vô sản không chỉ xuất phát từ tình cảm, sự kính trọng V.I.  Lê-nin và lòng yêu mến, ngưỡng mộ Cách mạng Tháng Mười Nga do V.I. Lê-nin lãnh đạo. Điều quan trọng là, từ hành trình tìm đường cứu nước, nghiên cứu thực tiễn chính trị và tư tưởng, lý luận hàng chục năm ở nhiều nước, Người nhận thấy: “cách mạng” có nhiều thứ, “chủ nghĩa”, “học thuyết” cũng có nhiều nhưng chỉ có Cách mạng Tháng Mười Nga là thành công “đến nơi” và chủ nghĩa Lê-nin là “chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất”[9]. Chỉ theo con đường Cách mạng Tháng Mười Nga và theo chủ nghĩa Mác - Lê-nin mới có thể giải đáp được những yêu cầu khách quan của lịch sử dân tộc, đó là độc lập cho dân tộc và ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. 

    Từ đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”[10]. Chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc; đồng thời, không thể giải phóng được giai cấp vô sản nếu không giải quyết được vấn đề độc lập dân tộc. Độc lập dân tộc gắn liền và dựa trên cơ sở bảo đảm các quyền con người, như quyền được sống, quyền bình đẳng, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Cách mạng Việt Nam chỉ có một con đường tất yếu là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân gắn liền với cách mạng xã hội chủ nghĩa. Kiên định, vững vàng giương cao ngọn cờ “độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội” - một cách tiếp cận hoàn toàn mới, chưa hề có tiền lệ trong lịch sử, kết quả của sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, trở thành phương châm lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và là con đường duy nhất đúng đưa cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và sự nghiệp phát triển đất nước đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

    Trên cơ sở nhận thức về thời đại, nhận thức về dân tộc và sức mạnh dân tộc, từ thực tiễn của công cuộc đổi mới đất nước dựa trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam của Đảng ta ngày càng rõ hơn. Trong quá trình đổi mới nhận thức, Đảng ta đã nhận thấy việc xác định đúng mô hình chủ nghĩa xã hội là tất yếu có ý nghĩa quyết định đến sự thành công của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đó là cơ sở, là định hướng để Đảng và Nhà nước hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách và pháp luật nhằm hiện thực hóa mục tiêu xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

    Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với thực tiễn đất nước cùng với nhận thức sâu sắc về những quy luật phát triển tất yếu, khách quan, Đảng ta đã tiến hành công cuộc đổi mới, chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; tiếp tục vững bước đi trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Từ thực tiễn công cuộc đổi mới, Đảng ta đã không ngừng bổ sung, hoàn thiện nhận thức, lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Trên cơ sở đó, đề ra các chủ trương về hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; tập trung đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh; hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển bền vững, gắn tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, con người, giải quyết các vấn đề xã hội, bảo vệ tài nguyên, môi trường; xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam; phát huy tinh thần yêu nước, khát vọng phát triển, kết hợp sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc với sức mạnh thời đại; kiên quyết, kiên trì bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ đất nước đi đôi với giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển; chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, giữ vững độc lập, tự chủ, bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc trên hết và trước hết trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế, bình đẳng, cùng có lợi.

    Qua 90 năm xây dựng và trưởng thành, với kinh nghiệm và bản lĩnh vững vàng của một đảng cách mạng chân chính, Đảng ta luôn nhận thức rõ yêu cầu phải tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; luôn nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; tăng cường mối quan hệ mật thiết với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, đáp ứng yêu cầu giải quyết những khó khăn, thách thức, những vấn đề lý luận và thực tiễn mới, phức tạp nảy sinh trong tiến trình đổi mới. Đặc biệt, công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” được Đảng ta triển khai quyết liệt, đồng bộ, bài bản, đi vào chiều sâu, có bước đột phá và đạt nhiều kết quả nổi bật. Nhờ đó, tình trạng tham nhũng, tiêu cực, lãng phí từng bước được kiềm chế và đẩy lùi, được cán bộ, đảng viên và nhân dân hoan nghênh, đánh giá cao, đồng tình ủng hộ, góp phần tạo nên dấu ấn nổi bật trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Văn hóa, xã hội, con người phát triển toàn diện; đời sống vật chất và tinh thần của mọi người dân được cải thiện, ngày càng trở nên phong phú; khối đại đoàn kết toàn dân tộc không ngừng được củng cố vững chắc. Chính trị, xã hội ổn định; quốc phòng - an ninh được tăng cường; độc lập, chủ quyền được giữ vững; vị thế, uy tín và hình ảnh của đất nước ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế. Những thành tựu rất đáng tự hào đó là sản phẩm kết tinh sức sáng tạo của Đảng và nhân dân ta, tiếp tục khẳng định: Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là phù hợp với thực tiễn đất nước và xu thế phát triển của thời đại.

  3. Kết luận

Trước thực tiễn mới của thời đại, V.I. Lênin đã có đóng góp to lớn làm phong phú chủ nghĩa xã hội khoa học. Tiêu biểu là lý luận về xây dựng Đảng kiểu mới, về sự chuyển biến cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới thành cách mạng xã hội chủ nghĩa, lý luận về nhà nước xã hội chủ nghĩa và cách mạng xã hội chủ nghĩa; về vai trò vĩ đại của quần chúng nhân dân mà nòng cốt là khối liên minh công - nông - trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Hiện nay, trong bối cảnh đời sống chính trị - xã hội quốc tế có những diễn biến phức tạp, việc nghiên cứu những nguyên lý trong di sản tư tưởng của V.I. Lênin, vận dụng và phát triển sáng tạo vào thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam vừa đáp ứng nhu cầu bức thiết của thực tiễn đổi mới, vừa đáp ứng yêu cầu tiếp tục vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin trong giai đoạn hiện nay. 

 

 

CN. Phạm Hà Hải Đăng

Alternate Text

Bình luận

Danh sách bình luận

Số lượng ý kiến bài viết: 0

Thống kê lượt truy cập

Lượt truy cập:

Khách online: